NGUỒN GỐC
Lý thuyết phân quyền trong việc điều hành guồng máy một quốc gia bắt nguồn từ 2 lý thuyết gia lừng danh, John Loke (Anh, 1632 – 1704) và Montesquieu (Pháp, 1689 – 1755).
Trong “Luận về Chính quyền dân sự” (Two Treatises of Government – 1689), Loke chủ trương chia 3 quyền phân biệt sau:
– Lập Pháp
– Hành Pháp
– Ngoại Giao
Trong “Vạn Pháp Tinh Lý” (De l’esprit des lois / The Spirit of the Laws, 1748), Montesquieu sửa đổi và bổ sung lý thuyết của Loke trở thành 3 quyền sau:
Lập Pháp: soạn thảo hiến pháp, luật pháp cho quốc gia, và biểu quyết các đạo luật từ Hành pháp.
Hành Pháp: điều hành đất nước dựa trên việc thực thi luật pháp và tuân thủ hiến pháp
Tư Pháp: dựa trên luật pháp quốc gia, tổ chức xét xử tất cả những hành vi phạm pháp của công dân và của các cơ quan công quyền kể cả cá nhân trong các cơ quan đó…
Theo lý thuyết này của Montesquieu thì Hành pháp đảm nhiệm cả việc đối ngoại cho quốc gia.
Gần 300 năm qua, ý tưởng và lối thiết kế phân quyền của Montesquieu vẫn còn nhiều ảnh hưởng cho dù theo đà tiến triển của văn minh nhân loại, người ta đã có nhiều phát kiến bổ khuyết cho phù hợp với từng quốc gia địa phương, nhưng tựu trung lại vẫn càng làm vững thêm cho lý thuyết phân quyền, một điểm son của văn minh nhân loại đang hiển hiện qua hình dạng các thể chế chính trị tự do dân chủ trên thế giới.
ĐẶC ĐIỂM
Vì sao J. Loke và Montesquieu phải chủ trương phân quyền? Điều gì đã khiến các vị lý thuyết gia tiên phong của nhân loại nghĩ ra lý thuyết ấy?
Ta hãy nghe Montesquieu: “…Khi lập pháp bị sát nhập vào hành pháp nghĩa là quyền sinh ra luật và thi hành luật nằm trong tay 1 nhóm người thì đất nước không có tự do được! Thật đơn giản để vừa làm ra luật vừa áp dụng luật một cách độc đoán… Nếu mà cả tư pháp lại bị nhóm quyền hành này thâu tóm nữa thì chế độ cai trị sẽ có sức mạnh của kẻ áp bức…”(“Vạn Pháp Tinh Lý”)
Như vậy, nguyên tắc phân quyền ra đời cốt để ngăn chặn độc tài hoặc dân chủ giả hiệu. Nó phân chia hài hòa các bình diện trách vụ của quốc gia làm 3 nơi.
Phân nhiệm: mỗi cơ quan đại diện cho công quyền quốc gia thực thi một nhiệm vụ riêng, có quyền hạn trong phạm vi nhiệm vụ đó mà thôi.
Độc lập: sự phân nhiệm như thế đã ấn định thẩm quyền của mỗi cơ quan, do đó, các cơ quan hoàn toàn độc lập với nhau từ quyền hạn đến trách vụ, cho nên sẽ không thể có sự dẫm đạp nhau hoặc thông đồng, ảnh hưởng đến nhau hay phối hợp nhau mà nhũng lạm quyền hành. Tỉ dụ, quốc hội (lập pháp) không có quyền xen vào việc của chính phủ (hành pháp) cũng như chính phủ không thể khiến quốc hội biểu quyết các dự thảo luật, đạo luật v.v…
Tầm quan trọng của quyền Lập Hiến và Hiến pháp
Chú ý rằng, quyền Lập Hiến là tối thượng, nguyên thuỷ và bất khả phân của quốc gia. Quyền Lập Hiến chính là Chủ quyền của đất nước.
Hiến Pháp là những nguyên tắc và là tuyên ngôn tối thượng, là kim chỉ nam cho sinh hoạt chính trị của quốc gia, và đồng thời là khế ước bắt buộc với bộ máy cầm quyền phải thực thi nhân quyền và dân quyền, nghĩa là họ được dân bầu lên (trong 1 nhiệm kỳ hạn định) để phục vụ ý dân thông qua các chức danh đại diện quyền lực chính quyền của đất nước.
Vì thế, các cá nhân hay nhóm thiểu số nắm quyền lực thì sẽ phải mãn nhiệm nhưng Hiến Pháp thì không. Hiến Pháp thì trường cửu và chỉ có thể được sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế đời sống bởi những quy trình tu chính công minh và nghiêm ngặt.
Đối với những cơ quan công quyền trong một quốc gia, tội vi hiến là trọng tội và hậu quả là bị bãi nhiệm hoặc truy tố.
Vì Hiến Pháp quan trọng như thế nên bất cứ chế độ cai trị nào thao túng quy trình tạo lập Hiến Pháp, tùy nghi sinh ra, tùy ý sửa đổi… thì chế độ đó là một thứ guồng máy độc tài, áp bức và man trá.
Và một chế độ thực sự công bằng, tự do dân chủ phải lấy ý tưởng phân quyền làm nền tảng trong việc soạn thảo Hiến pháp.
Nguyên tắc phân quyền chỉ có giá trị theo sau, khi một Hiến Pháp thực sự của dân, do dân và vì dân được xác lập bởi một Quốc Hội Lập Hiến. Quốc Hội Lập Hiến do dân bầu trong một cuộc phổ thông đầu phiếu hợp lệ, công bằng và khách quan, trong sạch.
Sau khi soạn thảo xong Hiến Pháp, Quốc Hội Lập Hiến giải tán và nhường bước lại cho các diễn tiến thực thi tam quyền phân lập đã được hiến định, đó là tiến hành các cuộc bầu cử trọng yếu bầu ra bộ máy Hành Pháp và Lập Pháp. Riêng Tư Pháp, có nơi do dân bầu trực tiếp, có nơi do Hành Pháp chỉ định (bổ nhiệm) và được Lập Pháp chuẩn thuận.
CƠ CẤU TỔ CHỨC CÁC CƠ QUAN CÔNG QUYỀN
CƠ QUAN LẬP PHÁP: QUỐC HỘI
Định Nghĩa:
Ngoại trừ Quốc Hội Lập Hiến với nhiệm vụ và trọng trách hạn định như đã trình bày ở trên, đã giải tán sau khi soạn thảo xong Hiến Pháp, thì Quốc Hội Lập Pháp (hay còn gọi là Nghị Viện) là cơ quan công quyền thường trực, gồm các dân biểu (đại biểu của dân, do dân bầu) và cũng sẽ được tái bầu theo hạn trình hiến định.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc Hội là soạn thảo Luật lệ cho quốc gia, biểu quyết các đạo luật từ hành pháp và kiểm soát bộ máy hành pháp trong việc thực thi chính sách quốc gia.
Phân Loại:
1- Chế độ nhất viện: Theo chế độ này thì Quốc Hội chỉ có 1 viện duy nhất (ví dụ Quốc Hội VNCH từ 1956 – 1963).
Nhất viện quốc hội có những lợi ích như việc lập pháp nhanh chóng và tập trung, các dân biểu sinh hoạt trong 1 viện duy nhất nên dễ làm việc, đoàn kết và thống nhất ý chí, chưa kể việc ngân sách quốc gia cũng được giảm nhẹ.
Chế độ nhất viện được áp dụng duy chỉ tại VNCH thời đệ nhất cộng hòa do bởi tình hình đặc biệt lúc đó: nền cộng hỏa non trẻ của Việt Nam lần đầu tiên được thành lập, trong bối cảnh miền Bắc cộng sản đang chuẩn bị một cuộc xâm lăng quy mô và lâu dài với viện trợ hùng hậu của đế quốc cộng sản Nga sô và Trung cộng hòng thôn tính miền Nam tự do cho tham vọng nhuộm đỏ thế giới.
2- Chế độ lưỡng viện: Theo chế độ này thì Quốc Hội có 2 viện: Thượng nghị viện và Hạ nghị viện.
Các dân biểu Hạ viện được bầu từ các tỉnh, địa phương. Các nghị sĩ Thượng viện được bầu trên quy mô toàn quốc. Do đó chế độ lưỡng viện đại diện đầy đủ các tấng lớp nhân dân. Các quốc gia liên bang (hoặc không) thường áp dụng chế độ lưỡng viện quốc hội như Hoa Kỳ, Đức, Thụy Sĩ (hay Anh, Pháp, VNCH -đệ nhị cộng hòa 1967).
Chế độ lưỡng viện thận trọng và chắc chắn hơn trong việc lập pháp. Nếu Hạ viện sôi nổi hơn với đòi hỏi đặc thù của tầng lớp quần chúng địa phương thì Thượng viện chín chắn hơn trong việc điều hòa nhu cầu địa phương và tiếng nói chung của quốc gia.
Thượng viện còn là nơi có thẩm quyền khả dĩ làm vai trò theo dõi và kiểm soát mọi hoạt động của chính phủ (hành pháp). Vì thế nền chính trị quốc gia dễ thăng bằng và khó rơi vào chỗ cực đoan hay nhũng lạm quyền hành hay nguy cơ phát sinh mầm mống độc tài.
Quy chế:
Để bảo đảm tính độc lập và quyền uy trong vai trò đại diện ý dân, Dân biểu và Nghị sĩ được hưởng một số đặc quyền cũng như bị một vài hạn chế.
Đặc quyền:
– Tự do phát biểu ý kiến: Dân biểu và Nghị sĩ hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến tại nghị trường Quốc hội. Không ai có thể khiến Dân biểu hay Nghị sĩ biểu quyết hay không về một chủ đề bàn thảo hay thông qua một đạo luật chẳng hạn. Ví dụ: Điều 37 Hiến Pháp VNCH (1967): “Không thể truy tố, tầm nã, bắt giam hay xét xử dân biểu hay nghị sĩ vì những phát biểu và biểu quyết của họ tại quốc hội”
– Bất khả xâm phạm: Nhằm ngăn ngừa bị uy hiếp và bảo vệ vai trò của người đại diên cho dân chúng, Dân biểu và Nghị sĩ được hưởng quyền Bất khả xâm phạm (quyền này không áp dụng cho trường hợp các tội vi cảnh, hay liên quan đến kỷ luật nội bộ Nghị viện, hay quả tang phạm pháp). Ví dụ: Điều 37-2 Hiến Pháp VNCH (1967): “Trong suốt thời gian pháp nhiệm, ngoại trừ trường hợp quả tang phạm pháp, không thể truy tố, tầm nã bắt giam hay xét xử dân biểu hay nghị sĩ nếu không có sự chấp thuận của 3/4 tổng số Dân biểu hay Nghị sĩ”
– Hoãn dịch: Trong thời gian pháp nhiệm, Dân biểu và Nghị sĩ không phải thi hành quân dịch (Military Service). Quyền này nhằm tôn vai trò quan trọng và ưu tiên của những vị dân biểu trong việc thực thi ý dân giao phó.
– Phụ cấp cao: Dân biểu và Nghị sĩ được hưởng phụ cấp cao bằng ngân sách quốc gia nhằm giúp các vị yên tâm về sinh kế để tập trung cho trọng trách đang mang, hơn nữa, để dễ dàng chối từ các cạm bẫy lợi dụng của các thế lực khác muốn chi phối vai trò đặc quyền của Nghị viên.
Hạn chế:
– Bất khả kiêm nhiệm: Dân biểu và Nghị sĩ không được kiêm nhiệm bất kỳ công vụ nào khác được trả lương, hay kiêm thêm 1 nhiệm vụ dân cử khác, hoặc kiêm nhiệm một vai trò, chức vụ doanh vụ tư nhân.
Tuy nhiên, các Nghị viên có thể tham gia phụ trách giảng huấn nếu có năng lực, tại các trường Đại Học hoặc Cao Đẳng.
– Bảo mật tài liệu: các Nghị viên có trọng trách gìn giữ bí mật về các tài liệu quốc gia được bàn thảo tại nghị trường quốc hội.
– Không được dự thầu: các Nghị viên (và người hôn phối) Không được tham gia các vụ đấu thầu hay ký các giao kèo doanh vụ với các cơ quan công quyền khác.
CƠ QUAN HÀNH PHÁP: CHÍNH PHỦ
Định Nghĩa: Cơ quan hành pháp tức Chính Phủ (hay Nội Các) là cơ quan đại diện quyền lực bề mặt của quốc gia, thi hành luật pháp, điều hành quốc vụ trong nước và đại diện cho đất nước trong bang giao quốc tế.
Cơ quan Hành Pháp do dân bầu cử trong một cuộc phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Nhiệm kỳ phổ biến hiện nay của Hành Pháp là 4 năm theo hiến định.
Hình thức:Tùy mỗi nước, ta phân biệt các hình thức của hành pháp như sau:
Nhất đầu: Do một người duy nhất đứng đầu.
Hình thức hành pháp nhất đầu được áp dụng trong Thổng Thống Chế (*) như Hoa Kỳ, Đài Loan, Nam Hàn, VNCH (Đệ nhất Cộng hòa) v.v.: Thổng Thống do dân bầu đứng đầu hành pháp.
Hoặc áp dụng trong Nội Các Chế (*) như ở Anh Quốc, Nhật Bản: Thủ Tướng đứng đầu Chính phủ.
Với hình thức này, chính phủ mạnh và hữu hiệu trong việc điều hành quốc gia nhưng dễ mang mầm mống độc tài nếu Lập Pháp và Tư Pháp không có thực quyền theo đúng tinh thần tản quyền của Tam Quyền Phân Lập, hoặc hiến pháp không đủ độ rắn để ngăn ngừa độc tài phát sinh, nhất là trong 1 quốc gia mà quyền Tự Do Ngôn Luận (báo chí và truyền thông) không được tôn trọng hoặc quyền lập hội, chính đảng đối lập bị hành pháp đương nhiệm ngăn cấm hay man trá (dựng ra đối lập cuội để che mắt dân chúng)
Lưỡng đầu: Hành pháp được điều khiển bởi 2 người, Tổng Thống và Thủ Tướng Chính Phủ.
– Thổng Thống có vai trò Quốc Trưởng.
– Thủ Tướng Chính Phủ (có thể do Tổng Thống chỉ định với sự chuẩn thuận của Quốc Hội) đứng đầu Chính Phủ (gồm các Bộ trưởng và Thứ trưởng).
Cho đến nay, dù lưỡng đầu hay nhất đầu, thì hành pháp thường quy về nhất đầu nghĩa là người có thực quyền hoặc là Tổng Thống (trong Tổng Thống chế) hoặc Thủ Tướng (trong Nội Các chế) vị Quốc Trưởng hoặc Quốc Vương hoặc Nữ Hoàng… chỉ là vai trò hình thức không có thực quyền.
Cho dù là ai, Thổng Thống hay Thủ Tướng Chính Phủ cùng với Nội Các của mình (các Bộ Trưởng) thực thi chính sách quốc gia do mình đề ra và chính sách đó phải được Quốc Hội chuẩn y.
CƠ QUAN TƯ PHÁP: TÒA ÁN
Định Nghĩa: Là cơ quan công quyền quan trọng trong việc gìn giữ Công Bằng và Kỷ Cương cho sinh hoạt quốc gia. Tòa Án có vai trò tối quan trọng đem lại bầu khí công minh, chính đại trong việc thi hành chính sách quốc gia, tuân thủ hiến pháp và luật pháp (đối với chính phủ cũng như với dân chúng).
Cơ quan tư pháp do một Chánh Án tối cao hay Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện đứng đầu, bên dưới gồm một số phụ tá.
Chánh Án tối cao và các vị phụ tá do Tổng Thống bổ nhiệm với sự chuẩn thuận của Quốc Hội, và tại vị suốt đời nếu hội đủ năng lực và điều kiện làm việc.
Tối Cao Pháp Viện ra quy chế nghiêm ngặt về trình độ tư pháp và đạo đức cá nhân để tuyển bổ Thẩm Phán xử án phân bố khắp các Tòa Án trong hệ thống tư pháp toàn quốc.
Tính Độc Lập:
Là một cơ quan công quyền khách quan và cẩn trọng khi cầm cân nẩy mực xét định tội trạng, Tòa Án là chốn trông chờ, nương tựa của dân chúng khi gặp sự hiếp đáp hay bất công, vì họ thường là tầng lớp cô thế trước quyền thế lấn át của giới chức chính phủ. Đây [Tòa Án] là nơi cuối cùng họ tin tưởng và trông mong sẽ được cứu thoát khỏi bất công, oan khuất hoặc những đe dọa hãm hại từ bất cứ đâu.
Một xứ sở văn minh và nhân đạo thực sự phải có một nền tư pháp độc lập và nghiêm minh khả dĩ bảo vệ người dân chứ không phải về hùa với chính quyền.
Nền tư pháp đó luôn lấy tôn chỉ:
– Mọi người dân trong nước đều bình đẳng trước pháp luật.
– Không ai bị coi là có tội trước khi nhận phán quyết của Tòa Án qua 1 quá trình xử án hợp lệtrong quá trình thực thi Luật Pháp quốc gia.
Cao hơn nữa, là một cơ quan quyền uy nắm giữ giềng mối quốc gia, Tư Pháp còn là nơi canh giữ sự nghiêm minh của Hiến Pháp và Luật Pháp nếu bị hoặc Lập Pháp hoặc Hành Pháp vi phạm hoặc câu kết với nhau, bao che cho nhau (nếu có) vì khi 2 cơ quan này vi phạm thì chỉ người dân bị thiệt, tức là bất công đã xảy ra, lúc này nếu không có quyền tối thượng của Tối Cao Pháp Viện thì không một đoàn thể dân sự nào trong nước có thể can thiệp và trừng phạt những hành vi vi hiến hay phạm pháp của chính quyền.
Vì thế tính độc lập của tư pháp rất trọng yếu.
– Độc lập với Lập Pháp: Nhà lập pháp không được xen vào quyền xử án hoặc can thiệp để sửa đổi một án quyết.
Ngược lại, Thẩm phán cũng không được lấn sân của nhà làm luật.
– Độc lập với Hành Pháp: Chính phủ và nhân viên hành pháp mọi cấp không có thẩm quyền xử án. Quyền xử án là quyền duy nhất của Tư Pháp. Hành pháp không thể can thiệp quá trình xử án, không có bất kỳ quyền hạn nào tác động tới hoạt động của Tư Pháp. Khi chưa có án quyết của Tòa Án, thì mọi luận tội đều không có giá trị pháp lý (illegal).
Ngược lại, Tư Pháp không thể xâm lấn công việc hành chánh.
Quy chế:
Bất khả bãi miễn: Thẩm phán sau khi được tuyển bổ sẽ được hưởng quyền bất khả bãi miễn. Vị trí Thẩm phán của họ chỉ có thể bị chuyển đổi hoặc hủy bỏ theo / trong trường hợp luật định (ví dụ, quả tang phạm pháp) chứ không bởi quyền hành của cơ quan hành pháp.
Thẩm phán xử án một cách độc lập dựa trên Luật Pháp và lương năng.
Phụ cấp đặc biệt: Thẩm phán được hưởng lương cao và các phụ cấp nhà ở, phương tiện, gia nhân…để họ được hoàn toàn yên tâm về đời sống, có như vậy họ mới giữ trọn tính khách quan, nghiêm minh và giữ được lương tâm trong sạch khi tại vị.
Trừng phạt: Trong trường hợp vi phạm nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, hoặc phạm pháp, Thẩm phán bị định đoạt bởi Hội Đồng Thẩm Phán trong việc xét xử, quyết định tội trạng và chế tài. Hội Đồng này do các Thẩm Phán bầu lên
Tuyển bổ:
– Hoặc cử tri toàn quốc sẽ bầu lên Thẩm Phán quốc gia. Với cách này, vị thế của Tư Pháp sẽ độc lập tuyệt đối với Hành Pháp và Lập Pháp vì cùng bình đẳng, do dân cử.
– Hoặc Tổng Thống bổ nhiệm Chánh Án tối cao và các phụ tá (phải được Quốc Hội chuẩn thuận), sau đó Tối Cao Pháp Viện tự tổ chức tuyển bổ Thẩm phán cho ngành mình.
Nguồn trích dẫn: http://http://www.tudotanvan.com/2021/02/11/tam-quyen-phan-lap-la-gi-bai-1/ và https://www.tudotanvan.com/2021/03/16/tam-quyen-phan-lap-la-gi-bai-2/
MDLLAW.COM trích dẫn bài viết từ : Tự Do Tân Văn để thêm nhiều dữ kiện khoa học về pháp luật.