Ngày 17/09/2012 Trung Quốc yêu cầu thương nghị với Hoa Kỳ liên quan đến các biện pháp áp thuế của Hoa Kỳ lên hàng hóa Trung Quốc :
- Một đạo Luật (Public Law 112-99/Đạo luật thứ 99 được ban hành bởi Quốc hội Hoa Kỳ khóa 112) được thông qua cho phép áp dụng các biện pháp áp thuế chống trợ cấp lên các nước có nền kinh tế phi thị trường;
- Các quyết định áp thuế của Hòa Kỳ từ thời gian 20/11/2006 đến 13/03/2012 đối với các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc;
- Các biện pháp áp thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ được áp dụng đồng thời với các biện pháp áp thuế trợ giá, Trung Quốc phản đối áp thuế kép;
- Hoa Kỳ không có khung pháp lý trao quyền cho Bộ Thương Mại (USDOC) xác định hoặc ngăn chặn áp thuế kép trong việc điều tra, xem xét tiến trình đánh giá ban đầu từ giữ 20/11/2006 đến 13/03/2012;
Trung Quốc cho rằng Hoa Kỳ vi phạm
Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng (SCM): Điều 10, 15, 19, 21, 32
Hiệp định GATT 1994: Điều VI, X:1, X:2, X:3
Hiệp định Chống bán phá giá: Điều 9, 11
Ngày 12/11/2012 Trung Quốc yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm và sau cuộc hợp ngày 30/11/2012 DSB (Cơ quan giải quyết tranh chấp) quyết định thành lập Ban Hội thẩm.
Phán Quyết Sơ Bộ và Phúc Thẩm
Trong cuộc hợp ngày 17/12/2012, DSB thành lập Ban Hội thẩm. Áo, Canada, Châu Âu, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam, Ấn Độ, Nga bảo lưu quyền tham gia với tư cách bên thứ ba. Ngày 21/02/2013, Trung Quốc yêu cầu quyết định chọn thành viên Ban Hội thẩm, sau đó đến 04/03/2013 thành viên Ban hội thẩm được thành lập. Ngày 11/09/2013 Chủ tịch Ban Hội thẩm thông báo với DSB mong muốn đưa ra phán quyết cuối cùng vào tháng 12/2013, để còn thêm thời gian để các bên có thể thương nghị với nhau.
Nội Dung Vụ Kiện
Tranh chấp xảy ra xung quanh hai biện pháp áp dụng khác nhau của Hòa Kỳ lên hàng hóa của Trung Quốc: Điều 1- Đạo Luật (Public Law 112-99/Đạo luật thứ 99 được ban hành bởi Quốc hội Hoa Kỳ khóa 112) được thông qua cho phép áp dụng các biện pháp áp thuế chống trợ cấp lên các nước có nền kinh tế phi thị trường. Đồng thời Hoa Kỳ áp dụng song song biện pháp chống bán phá giá bên cạnh 25 biện pháp chống trợ cấp tính từ năm 2006-2012.
Trung Quốc khiếu nại cho rằng Điều 1-Public Law vi phạm Điều 10(X) (1, 2, 3(b) Hiệp định GATT 1994. Nhưng Ban Hội thẩm không đồng ý với yêu cầu và lập luận của Trung Quốc Điều 1 có hiệu lực áp dụng từ năm 2006 và phán quyết Điều 1 có hiệu lực từ năm 2012. Vì ngày có hiệu lực và ngày công bố là cùng một ngày, nên Hoa Kỳ không vi phạm điều 10 GATT 1994.
Liên quan đến Điều 10(2), đa số các thành viên Ban Hội thẩm xác định rằng dù Điều 1 là biện pháp áp dụng tổng đã được thi hành trước khi công bố. Nhưng Điều khoản 1 không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều X:2 vì nó không làm “tăng” mức thuế hoặc các khoản phí khác đối với hàng nhập khẩu theo một thực tiễn đã được thiết lập hoặc thống nhất, cũng không áp đặt một yêu cầu hoặc hạn chế “mới” hoặc “gây thêm gánh nặng” đối với hàng nhập khẩu. Theo kết luận của đa số Ban Hội thẩm, Hoa Kỳ do đó không hành động trái với Điều X:2 của Hiệp định GATT 1994.
Một thành viên Ban Hội thẩm không đồng tình một phần, cho rằng Điều 1 thực sự làm tăng mức thuế hoặc các khoản phí khác đối với hàng nhập khẩu theo một thực tiễn đã được thiết lập và thống nhất, đồng thời áp đặt một yêu cầu hoặc hạn chế mới hoặc gây thêm gánh nặng đối với hàng nhập khẩu. Do đó, thành viên Ban Hội thẩm này kết luận rằng Điều 1 thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều X:2, và Hoa Kỳ đã hành động không phù hợp với Điều X:2 của Hiệp định GATT 1994.
Cuối cùng, Ban Hội thẩm phán quyết rằng Điều X:3(b) không cấm ban hành các đạo luật có tính chất tương tự như Đạo luật Public Law 112-99. Nói cách khác, yêu cầu tại Điều X:3 rằng các cơ quan tài phán(lập pháp) “phải độc lập với các cơ quan được giao trách nhiệm thực thi hành chính, và các quyết định(nhánh lập pháp) của họ phải được các cơ quan đó thực hiện và chi phối hoạt động của các cơ quan đó, trừ khi có kháng cáo” không cấm việc ban hành luật có hiệu lực thay thế các phán quyết của tòa án hoặc cơ quan tài phán trong nước đang chờ xử lý tại thời điểm luật có hiệu lực. Theo quan điểm của Ban Hội thẩm, Hoa Kỳ do đó không hành động trái với Điều X:3(b) của Hiệp định GATT 1994
Liên quan đến các khiếu nại của Trung Quốc về vấn đề “biện pháp kép” (double remedies), Ban Hội thẩm xác định rằng Hoa Kỳ đã không tiến hành điều tra liệu “biện pháp kép” có phát sinh trong các thủ tục liên quan hay không, và do đó đã hành động không phù hợp với các Điều 19.3, 10 và 32.1 của Hiệp định về Trợ cấp và Các Biện pháp Đối kháng (SCM Agreement).
Phúc Thẩm
Vào ngày 8 tháng 4 năm 2014, Trung Quốc đã thông báo cho Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) về quyết định kháng cáo lên Cơ quan Phúc thẩm đối với một số vấn đề pháp lý được nêu trong báo cáo và một số cách diễn giải pháp lý của Phán Quyết Sơ Bộ. Vào ngày 17 tháng 4 năm 2014, Hoa Kỳ cũng thông báo cho DSB về quyết định kháng cáo lên Cơ quan Phúc thẩm đối với một số vấn đề pháp lý được nêu trong Phán quyết.
Vào ngày 6 tháng 6 năm 2014, Chủ tịch Cơ quan Phúc thẩm đã thông báo cho DSB rằng do cần thời gian để hoàn tất và dịch báo cáo, nên chưa thể phát hành báo cáo trong thời hạn 60 ngày. Dự kiến báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm sẽ được phát hành muộn nhất là vào ngày 7 tháng 7 năm 2014. Ngày 7 tháng 7 năm 2014, báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm đã được phát hành đến các thành viên.
Điều 6.2 của DSU (Hiệp định về Giải quyết Tranh chấp)
Mặc dù Hoa Kỳ không kháng cáo các kết luận của Phán quyết sơ bộ theo các Điều 10, 19.3 và 32.1 của Hiệp định về Trợ cấp và Biện pháp đối kháng (SCM), rằng nước này đã không điều tra và tránh việc áp dụng hai biện pháp chế tài trùng lặp trong 25 cuộc điều tra về thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng, Hoa Kỳ vẫn cho rằng trong quá trình kháng cáo, Phán quyết sơ bộ đã sai khi xác định rằng yêu cầu của Trung Quốc là phù hợp với Điều 6.2 của DSU, và rằng các khiếu nại theo Điều 10, 19.3 và 32.1 của Hiệp định SCM nằm trong phạm vi thẩm quyền của vụ kiện.
Cơ quan Phúc thẩm đã giữ nguyên kết luận của Phán quyết sơ bộ, rằng các khiếu nại theo Điều 10, 19.3 và 32.1 của Hiệp định về Trợ cấp và Biện pháp đối kháng (SCM) đã được Trung Quốc nêu rõ trong yêu cầu thành lập phán quyết sơ bộ, phù hợp với Điều 6.2 của Hiệp định về Giải quyết Tranh chấp (DSU), và do đó nằm trong phạm vi thẩm quyền của Phán quyết sơ bộ.
Hệ quả của kết luận này từ Cơ quan Phúc thẩm là các kết luận và khuyến nghị của Phán quyết sơ bộ theo các Điều 10, 19.3 và 32.1 của Hiệp định SCM vẫn có hiệu lực.
Điều X:2 của Hiệp định GATT 1994
Vào ngày 13 tháng 3 năm 2012, Quốc hội Hoa Kỳ đã ban hành Public Law 112-99 , trong đó Điều 1 bổ sung đoạn (f) mới vào Điều 701 của Đạo luật Thuế quan Hoa Kỳ năm 1930, quy định rõ ràng về việc áp dụng thuế đối kháng đối với các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường (NME).
Điều 1 của PL 112-99 cũng quy định rằng luật này áp dụng cho tất cả các thủ tục áp thuế đối kháng do cơ quan chức năng Hoa Kỳ khởi xướng từ ngày 20 tháng 11 năm 2006 trở đi, cũng như mọi vụ kiện đang chờ xử lý tại tòa án liên quan đến các thủ tục áp thuế đối kháng đó.
Điều X:2 quy định rằng không một biện pháp áp dụng chung nào được phép thực thi nếu (i) làm tăng mức thuế hoặc (ii) áp đặt một yêu cầu mới hoặc gây thêm gánh nặng thuế, trước khi biện pháp đó được công bố chính thức.
Phán quyết sơ bộ kết luận rằng Điều X:2 không chỉ cấm cơ quan hành chính hoặc tòa án thực thi một biện pháp trước khi công bố chính thức, mà còn cấm việc áp dụng biện pháp đó đối với các sự kiện hoặc hoàn cảnh đã xảy ra trước khi biện pháp được công bố.
Phán quyết sơ bộ xác định rằng Điều 1 đã được thực thi trước khi được công bố, và kết luận này không bị kháng cáo. Tuy nhiên, phán quyết cũng cho rằng Khoản 1 không phải là một biện pháp thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều X:2, và cuối cùng kết luận rằng Điều 1 không vi phạm Điều X:2 của Hiệp định GATT 1994.
Trung Quốc đã kháng cáo cách diễn giải của Phán quyết sơ bộ đối với Điều X:2 của Hiệp định GATT 1994, cũng như Phán quyết sơ bộ kết luận rằng PL 112-99 phù hợp với Điều X:2, vì đạo luật này không dẫn đến “việc tăng thuế suất hoặc các khoản phí khác đối với hàng nhập khẩu theo một thực tiễn đã được thiết lập và thống nhất”, cũng không áp đặt “một yêu cầu, hạn chế hoặc lệnh cấm mới hoặc gây thêm gánh nặng đối với hàng nhập khẩu” theo nghĩa của quy định đó.
Cơ quan Phúc thẩm cho rằng, để xác định liệu biện pháp đang bị xem xét có làm tăng mức thuế hay áp đặt một yêu cầu mới hoặc gây thêm gánh nặng theo nghĩa của Điều X:2, cần phải tiến hành so sánh giữa biện pháp mới có tính áp dụng chung trong luật quốc gia và biện pháp đã được công bố trước đó mà nó thay thế hoặc sửa đổi.
Do đó, Điều X:2 đòi hỏi phải xác định một “mốc so sánh” (baseline) trong luật quốc gia đã áp dụng trước khi có biện pháp mới. Kháng cáo của Trung Quốc tập trung vào cách Phán quyết sơ bộ diễn giải và áp dụng mốc so sánh đó.
Trên cơ sở đó, Cơ quan Phúc thẩm kết luận rằng Phán quyết sơ bộ đã sai lầm khi cho rằng cụm từ “theo một thực tiễn đã được thiết lập và thống nhất” có chức năng xác định mức thuế trước đây có liên quan, được dùng để đánh giá liệu có xảy ra sự gia tăng mức thuế hay không.
Cơ quan Phúc thẩm cũng cho rằng cách so sánh phù hợp theo Điều X:2 của Hiệp định GATT 1994 không phải là giữa mức thuế mới được áp dụng theo biện pháp đang bị xem xét và mức thuế trước đó được áp dụng theo một thực tiễn đã được thiết lập và thống nhất, như Phán quyết sơ bộ đã xác định.
Cơ quan Phúc thẩm đã bác bỏ kết luận của Phán quyết sơ bộ theo Điều X:2 của Hiệp định GATT 1994, rằng:
“Hoa Kỳ không hành động trái với Điều X:2 của GATT 1994, vì Khoản 1 không dẫn đến ‘việc tăng mức thuế hoặc các khoản phí khác đối với hàng nhập khẩu theo một thực tiễn đã được thiết lập và thống nhất, hoặc áp đặt một yêu cầu, hạn chế hoặc lệnh cấm mới hoặc gây thêm gánh nặng đối với hàng nhập khẩu’.”
Điều 11 của DSU (Hiệp định về Giải quyết Tranh chấp)
Sau khi bác bỏ cách diễn giải và áp dụng Điều X:2 của GATT 1994 của Phán quyết sơ bộ, Cơ quan Phúc thẩm cho rằng không cần thiết phải đưa ra phán quyết đối với các khiếu nại của Trung Quốc theo Điều 11 của DSU, vì các khiếu nại này cũng liên quan đến những kết luận tương tự của Phán quyết sơ bộ.
Sau khi bác bỏ cách diễn giải và áp dụng Điều X:2 của GATT 1994 của Phán quyết sơ bộ, Cơ quan Phúc thẩm đã xem xét liệu mình có đủ cơ sở để hoàn tất phân tích, nhằm xác định liệu Khoản 1 của PL 112‑99 có dẫn đến “việc tăng mức thuế hoặc các khoản phí khác đối với hàng nhập khẩu” hoặc áp đặt “một yêu cầu [hoặc] hạn chế mới hoặc gây thêm gánh nặng” theo nghĩa của Điều X:2 hay không.
Cơ quan Phúc thẩm lưu ý rằng phân tích này đòi hỏi phải so sánh giữa biện pháp đang bị xem xét (Điều 1 của PL 112‑99) và luật thuế đối kháng của Hoa Kỳ áp dụng trước khi có Điều 1.
Trong quá trình so sánh, Cơ quan Phúc thẩm đã xem xét liệu luật thuế đối kháng của Hoa Kỳ có bị thay đổi bởi Khoản 1, như Trung Quốc đã lập luận, và liệu sự thay đổi đó có dẫn đến “việc tăng mức thuế” hoặc áp đặt “một yêu cầu mới hoặc gây thêm gánh nặng” hay không.
Phía Hoa Kỳ cho rằng Điều 1 chỉ làm rõ luật hiện hành trước đó, và do đó không tạo ra bất kỳ thay đổi nào như vậy.
Cơ quan Phúc thẩm nhận thấy rằng các yếu tố liên quan trong luật thuế đối kháng của Hoa Kỳ được ghi nhận trong hồ sơ của Phán quyết sơ bộ (bao gồm: văn bản của các công cụ hướng dẫn pháp lý liên quan, các pVì những lý do trên, Cơ quan Phúc thẩm đã không thể hoàn tất quá trình phân tích và đưa ra kết luận về việc liệu Khoản 1 có thay đổi luật thuế đối kháng của Hoa Kỳ hay không, và do đó không thể xác định liệu Khoản 1 của PL 112-99 có dẫn đến “việc tăng mức thuế” hoặc áp đặt “một yêu cầu hoặc hạn chế mới hoặc gây thêm gánh nặng đối với hàng nhập khẩu” theo nghĩa của Điều X:2 của Hiệp định GATT 1hán quyết của tòa án Hoa Kỳ, và ý kiến của các chuyên gia pháp lý do các bên trình bày) đều có thể được diễn giải theo nhiều cách khác nhau.
Ngoài ra, thực tiễn của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (USDOC) trong việc diễn giải và áp dụng luật thuế đối kháng đối với hàng nhập khẩu từ các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường (NME) không nhất quán theo thời gian, và các khía cạnh pháp lý làm cơ sở cho hành động của USDOC vẫn còn mơ hồ.
Cơ quan Phúc thẩm nhấn mạnh rằng nhiệm vụ của họ trở nên khó khăn vì Phán quyết sơ bộ đã không xem xét đầy đủ tất cả các yếu tố liên quan của luật thuế đối kháng Hoa Kỳ, điều vốn cần thiết để đưa ra kết luận dựa trên cách diễn giải đúng đắn của Điều X:2.
Vì những lý do trên, Cơ quan Phúc thẩm đã không thể hoàn tất quá trình phân tích và đưa ra kết luận về việc liệu Điều 1 có thay đổi luật thuế đối kháng của Hoa Kỳ hay không, và do đó không thể xác định liệu Điều 1 của PL 112-99 có dẫn đến “việc tăng mức thuế” hoặc áp đặt “một yêu cầu hoặc hạn chế mới hoặc gây thêm gánh nặng đối với hàng nhập khẩu” theo nghĩa của Điều X:2 của Hiệp định GATT 1.
Thuật ngữ “biện pháp chế tài kép” (double remedies) không đơn thuần chỉ việc áp dụng đồng thời thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng đối với cùng một sản phẩm. Thay vào đó, “biện pháp chế tài kép” — còn gọi là “tính trùng lặp” (double counting) — đề cập đến trường hợp việc áp dụng đồng thời hai loại thuế này đối với cùng một sản phẩm nhập khẩu dẫn đến việc bù đắp cùng một khoản trợ cấp hai lần.
Biện pháp chế tài kép có thể phát sinh khi cả thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá được áp dụng đối với cùng một sản phẩm nhập khẩu, và phương pháp tính giá trị thông thường của nền kinh tế phi thị trường (NME) được sử dụng để xác định biên độ bán phá giá. Theo phương pháp NME, giá cả hoặc chi phí tại một quốc gia thay thế (surrogate country), chứ không phải giá nội địa, được dùng để tính giá trị thông thường.
Tại cuộc họp ngày 22 tháng 7 năm 2014, Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) đã thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và báo cáo của Phán quyết sơ bộ, với những sửa đổi do Cơ quan Phúc thẩm đưa ra.
Thời gian hợp lý để thực thi
Vào ngày 21 tháng 8 năm 2014, Hoa Kỳ thông báo với DSB rằng họ có ý định thực hiện các khuyến nghị và phán quyết của DSB một cách phù hợp với nghĩa vụ của mình theo WTO, và rằng họ sẽ cần một thời gian hợp lý để thực hiện.
Vào ngày 20 tháng 2 năm 2015, Trung Quốc và Hoa Kỳ thông báo với DSB rằng họ đã đồng thuận rằng thời gian hợp lý để Hoa Kỳ thực hiện các khuyến nghị và phán quyết của DSB sẽ là 12 tháng kể từ ngày thông qua các báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và Phán quyết sơ bộ. Theo đó, thời hạn này kết thúc vào ngày 22 tháng 7 năm 2015.
Vào ngày 23 tháng 7 năm 2015, Trung Quốc và Hoa Kỳ thông báo với DSB rằng họ đã thống nhất sửa đổi thời gian hợp lý, để thời hạn mới kết thúc vào ngày 5 tháng 8 năm 2015.
Vào ngày 21 tháng 8 năm 2015, Trung Quốc và Hoa Kỳ thông báo với DSB về Thủ tục Thỏa thuận theo Điều 21 và 22 của Hiệp định DSU.
Dịch và cải biên, phân tích: La Mạnh Nhất
Sources: