Án Lệ Strickland-Washington, Luật sư chỉ định không làm tròn nghĩa vụ

Án lệ Strickland-Washington 1984, tạo ra tiêu chuẩn cho Tu hiến pháp số 6 quyền được có Luật sư của bị cáo phạm trọng tội bị vi phạm khi Luật sư chỉ định không làm tròn nghĩa vụ.

Phán quyết của Tối Cao Pháp Viện(Toà án Tối Cao) đưa ra hai tiêu chuẩn để đánh giá trách nhiệm của Luật sư chỉ định

1.Luật sư thực hiện nghĩa vụ không trọn vẹn và hết sức mình

2.Nếu Luật sư thực hiện hết sức có thể và sẽ có kết quả khác đi.

Phán quyết này tạo sự hài hoà “nhằm đánh giá trách nhiệm Luật sư” khi xảy ra xung đột giữa Toà án cấp dưới.

Án Lệ Strickland
David leroy Washington

Sự Việc Án Lệ Strickland

David Washington bị kết án tử hình với 3: tội giết người, bắt cóc và ý định giết người. Tại phiên toà sơ thẩm Washington thừa nhận các hành vi trộm cắp nhưng cung cấp thêm là ông bị trầm cảm (stress) vì thiếu sự ủng hộ của gia đình.

Trước khi phiên toà xét xử, Luật sư chỉ đã không thể tìm ra các nhân chứng và yêu cầu giám định tâm thần. Luật sư quyết định không đưa ra các bằng chứng liên quan đến tâm thần của Washington. Luật sư cũng không yêu cầu bản báo cáo lý lịch tư pháp vì nó có lưu lại các tiền án của Washington nên có thể dựa vào điểm này giúp bị cáo có tình tiết giảm nhẹ.

Toà án tìm thấy rất nhiều tình tiết tăng nặng và không có tình tiết giảm nhẹ. Đã tuyên án tử hình Washington sau đó Toà cấp trên vẫn y án tử hình.

Washington sau đó viết đơn kháng án lên Toà phúc thẩm khu vực số 5 cho rằng Luật sư chỉ định đã không làm tròn trách nhiệm, không làm hết sức mình để bảo vệ ông. Toà phúc thẩm với 3 thẩm phán phụ trách đã xem xét và đã sửa án tuyên Luật sư thiếu trách nhiêm vi phạm Tu hiến pháp số 6. Tuy nhiên, tiểu bang Florida (vụ án đặt tên theo giám đốc nhà tù bang Florida là Strickland) đã kháng cáo bản án Toà phúc thẩm lên Tối cao Pháp Viện, trong thời gian đó một vụ việc tương tự đang xảy ra ở Toà phúc thẩm số 11 sẽ dựa vào bản án của Toà phúc thẩm số 5 để tuyên án.

Phán Quyết Tối Cao Pháp Viện

Tối Cao Pháp Viện đã lập ngược toàn bộ bản án của Toà phúc thẩm số 5. Hiểu theo Tu hiến pháp số 6 quyền được có Luật sư “tồn tại, cần thiết để bảo vệ quyền cơ bản của công dân để có sự xét xử công bằng”. Xét xử công bằng là “chứng cử được đưa ra một cách minh bạch và khách quan để xác định tình tiết vụ án”. Bị cáo yêu cầu Luật sư chỉ định phải có năng lực, kỹ năng để có thể tránh bị tuyên phạt không phải là tinh thần của Tu hiến pháp số 6 Toà án chỉ định Luật sư khi họ không thể hoặc không đủ chi phí thuê Luật sư.

Tuy nhiên, thực tế “rất nhiều Luật sư chỉ định bảo vệ cho bị cáo thường không cảm thấy hài lòng hay thoải mái với việc bị chỉ định”. Vai trò của Luật sư phải là đối trọng với bên công tố trong phiên toà để có thể cáo buộc Luật sư không làm đúng trách nhiệm phải đưa ra được 2 luận điểm sau:

1.Bị cáo phải chỉ ra rằng có hành vi thiếu trách nhiệm “lỗi của Luật sư không đảm bảo cho bị cáo hưởng đặc quyền theo Tu hiến pháp số 6”

2.Lỗi này phải dẫn đến sự công bằng trong xét xử bị vi phạm nghiêm trọng

Để có thể đánh giá luật sư phải không đủ tiêu chuẩn một cách hợp lý. Các chuyên gia pháp luật đủ năng lực tiêu chuẩn trước và khi hành nghề, và vai trò đối trọng với Công tố. Bao gồm các trách nhiệm hỗ trợ bị cáo và cũng không tạo thêm tính trầm trọng của vụ án, lợi ích của bị cáo. Thảo luận với bị cáo khi đưa ra các quyết định, trình tự thông tin thủ tục vụ án. Tuy nhiên, nhiệm vụ cơ bản của Luật sư không phải làm hài lòng bị cáo mà là đưa ra các quyết định chiến lược cho lợi ích của bị cáo và cũng phải làm tròn nghĩa vụ của luật định bào chữa cho bị cáo.

Phải đưa ra các quyết định hợp lý, điều tra có lý do hoặc đưa ra các quyết định không thực hiện các thủ tục, hành vi khi thấy nó không cần thiết. Khi xét thấy các yêu cầu như giám định hay các yêu cầu khác không cần thiết làm bất lợi cho bị cáo. Các bản án có thể phải ghi chú lại một tuyên bố của bị cáo rằng anh ta đồng ý với những gì Luật sư đã bào chữa.

Không phải lỗi nào của Luật sư cũng phải được xem xét trừ khi nó ảnh hưởng đến quyền lợi của bị cáo, ảnh hưởng đến phán quyết của Toà. Phải chứng minh rằng lỗi này hoặc không làm một việc gì, hoặc bằng chứng có thể làm giảm nhẹ tội mà không được đưa ra.

Theo vụ việc Tối Cao Pháp Viện phán quyết Luật sư không vi phạm nghĩa vụ trách nhiệm luật định và Washington không bị ảnh hưởng đến quyền lợi, không bị xâm phạm. Trong vụ việc Luật sư bào chữa theo hướng bị cáo ăn năn hối hận và do bị áp lực tâm lý dẫn đến hành vi phạm tội qua đó để bồi thẩm đoàn xem xét phán quyết.

Sự Đồng Quy

Thẩm phán Brennan cho rằng Tối cao pháp viện đang tạo ra một tiêu chuẩn mới với các Luật sư chỉ định gây tổn hại cho ngành Tư pháp: ” Nhiệm vụ quan trọng nhất của Luật sư bào chữa là tìm ra chứng cứ tốt nhất có lợi cho bị cáo trình bày trước Toà án. Việc đánh giá trách nhiệm của Luật sư là nên làm để xét sự tương xứng với nhiệm vụ.”

Nhưng đồng thời ông cũng bảo lưu quan niệm phán quyết án tử hình của Toà Án.

Bất Đồng Quan Điểm Án Lệ Strickland

Thẩm phán Marshall bất đồng quan điểm với đa số phán quyết như sau: Tiêu chuẩn này không tạo ra sự phân xử công bằng theo Tu hiến pháp số 6. Tiêu chuẩn trách nhiệm rất dễ bị các luật sư lạm dụng để không thực hiện hết nghĩa vụ của mình vì nó không rõ ràng. Tu hiến pháp số 6 sẽ bị diễn giải theo nhiều cách khác nhau ở các Toà án.

Sự hợp lý là gì? Luật sư được thuê và chỉ định. Người được thuê được trả một khoảng tiền nên họ tận tâm và trách nhiệm với số tiền họ nhận, luật sư thêu mướn sẽ có nhiều tiềm lực tài chính để thực hiện. Ông không đồng ý với lập luận số đông của TCPV là nó sẽ tạo ra gánh nặng cho các Luật sư chỉ định. Ông lập luận vì đó là trách nhiệm nghề nghiệp buộc họ phải thực thi ông lo lắng các Luật sư trong tương lai lợi dụng án lệ này để trốn tránh trách nhiệm.

Tiêu chuẩn nghề Luật sư phải thật đặc biệt phải áp đặt trách nhiệm để bảo vệ hết mình cho bị cáo đặc biệt là phạm tội trọng tử hình.

Thẩm phán Phe Đa Số Phán Quyết

(8-1)

Thiểu Số Phán Quyết


Marshall

Dịch và cải biên: La Mạnh Nhất

Nguồn: https://en.m.wikipedia.org , https://www.oyez.org/cases/1983/82-1554

Các Án Lệ khác: Án Lệ Phá Thai-Roe vs Wade

Án Lệ Plessy-Ferguson(1896) Phân chia nhưng công bằng

Án lệ Gideon-Wainwright (1963)Quyền được có Luật Sư

Án Lệ Miranda-Quyền Được Giữ Im Lặng 

Rockefeller-Án lệ chống độc quyền 

Án Lệ Loving-Virginia, Án Lệ Tình Yêu, Hôn nhân khác chủng tộc.