Luật La Mã quy định về Tài sản và Chiếm hữu

Trong pháp luật La Mã đã quy định đất đai và động sản cá nhân có quyền sở hữu. Khái niệm về quyền sở hữu tuyệt đối (Dominium theo tiếng Latin có nghĩa là kiểm soát, sở hữu), trái ngược với các khái niệm liên quan đến quyền sở hữu của hệ thống pháp luật Anh Quốc và pháp luật nước Đức (Germanic System).


Mancipatio , một dạng chuyển giao tài sản, hình thức chuyển nhượng tài sản cần phải có sự hiện diện (có mặt) của người bán lẫn người mua và năm nhân chứng (năm người đàn ông trưởng thành là công dân La Mã), một bàn cân và thỏi đồng (đồng đỏ hoặc đồng khối). Người mua cầm đồ vật (món hàng đang mua) và tuyên thệ “Tôi khẳng định rằng tài sản này là của tôi theo Luật Quiritarian (Luật La Mã) và nó được mua bởi tôi bằng lượng đồng (copper) được cân này- I assert that this thing is mine by Quiritarian law and let it have bought by me with this piece of copper and these copper scales“. Sau đó đánh vào bàn cân cùng lúc chỉ tay vào người bán và nói “by ways of price-bán với giá này”

In Jure cessio là hình thức một vụ kiện. Người mua khiếu kiện trước khi Thẩm phán (quan toà-pháp quan) ra phán quyết, người mua là bị đơn thừa nhận khiếu kiện của nguyên đơn. Sau đó thẩm phán ra phán quyết tài sản thuộc về người mua.

Usucapio là quyền tài sản được mua theo thời gian chiếm hữu (sở hữu). Thời kỳ đầu pháp luật La Mã, đối với đất đai là sở hữu liên tục 02 năm, 01 năm đối với động sản. Sau đó pháp luật được cải biên, chiếm hữu phải chính đáng và công bằng và tài sản không thể bị đánh cắp (kể cả trường hợp người chiếm hữu bị trộm đánh cắp) hoặc bị cưỡng ép bằng vũ lực.

luật la mã

Occupatio, tài sản vô chủ có thể liên quan đến quyền tư hữu (trừ các đền thờ…) vật sẽ trở thành tài sản của người đầu tiên chiếm hữu ví dụ như động vật và các đảo nổi trên biển, áp dụng luôn đối với tài sản bị bỏ rơi.

Accessio, nếu vật dụng thuộc về người A kết hợp vào tài sản vật dụng chính (vật dụng chủ yếu) quyền chiếm hữu sẽ thuộc hoàn toàn người B. Ví dụ: thuốc nhuộm của A được sử dụng vào quần áo của B, quần áo được nhuộm là của B hoàn toàn. Quy định quan trong nhất là nếu các vật được hình thành trên phần đất của chủ sở hữu sẽ trở thành tài sản của người đó.

Specificatio, nếu A làm một vật thoát khỏi sự lệ thuộc một vật của B. Có hai luồng tư tưởng xuất hiện một là vật sẽ thuộc về, hai là vẫn là của B. Hoàng đế Justinian đã tạo ra luật định song song. Nếu có thể đưa vật trở về hình thái ban đầu sẽ.là của B và ngược lại. Ví dụ rượu nho không thể trở lại thành trái nho.

Thesauri Inventio, kho báu vô chủ nếu một người tìm ra vật trên đất của anh ta, tài sản này thuộc về anh ta. Nếu tìm được trên đất của người khác 50% thuộc về người tìm ra và 50% thuộc về người chủ đất.

Traditio là dạng chuyển nhượng quyền chiếm hữu đơn giản bằng hình thức Jus Gentium. Nếu A bán và giao cho B một nô lệ theo luật dân sự La Mã (jus civile) thì A vẫn là chủ của nô lệ cho đến một thời hạn nhất định thì mới hoàn toàn chuyển qua cho B. Các Pháp quan (Praetors) cũng quy định thủ tục dân sự bảo vệ quyền chiếm hữu của B (người mua) trong trường hợp khi A mất quyền sở hữu vì nhiều lý do khác nhau, B sẽ toàn quyền sở hữu tài sản (In bonis). Đây là một dấu ấn trong việc xác minh chủ sở hữu. Thuật ngữ “in bonis” dùng để giải thích quyền bonitary. Hoàng đế Justian đã bãi bỏ sự phân biệt quyền dân sự và quyền bonitary, xem một đây là một quyền chính thức.

Thuê bất động sản (Leaseholder) ban đầu người đi thuê mướn không có quyền chống đối hay phản đối các lãnh chúa và không được cho người khác thuê lại. Nhưng có quy định thời hạn sở hữu tài sản thuê mướn: nông sản và nhà cửa được thuê có kỳ hạn hay vĩnh viễn thường xác định tách biệt với chủ sở hữu.

Servitudes, một có được quyền sở hữu tài sản từ người khác. Quyền đi đường và quyền sở hữu nước, quyền ánh sáng….Quyền Ususfructus là được sử dụng, thu hoạch hoa màu, lợi tức trên phần đất đã thuê, một khái niệm được sử dụng đến ngày nay.

Quyền sở hữu là tuyệt đối, phân biệt hoàn toàn với chiếm hữu và sử dụng. Để tránh tình trạng chủ sở hữu muốn cản trở hoặc can thiệp vào quyền của bên thuê tài sản.

Lỗi Vi Phạm và Hợp Đồng

Trách nhiệm được chia ra làm hai phần chính, bất kể do lỗi phát sinh từ các bên hay hợp đồng. Luật Justinian chia trách nhiệm theo hai thuật ngữ quasi-delict quasi-contract.

Đầu thế kỉ thứ 6 đến 5 trước công nguyên, Luật La Mã đã có sự thay đổi từ hệ thống “trả thù cá nhân” sang bồi thường tiền mặt. Nhưng trong trường hợp nếu một người làm gãy tay chân người khác thì sẽ bị áp dụng talio (sẽ bị trừng phạt nhận lại cùng tổn thương như bị đánh gãy tay chân….) tuy nhiên vài trường hợp khác sẽ áp dụng hình phạt bồi thường, trộm cắp sẽ bồi thường gấp đôi tài sản đã ăn cắp trừ trường hợp phạm tội bị bắt tại trận thì sẽ bị phạt roi và tùy thuộc vào người bị bắt là ai

Thời kỳ đầu Đế chế La Mã, đã có sự thay đổi từ hình phạt nặng gấp bốn lần trong trường hợp bắt trộm ngay tại trận và Toà án sẽ xem xét hình phạt Injuria( phạt tổn thương thân thể-kể cả bị phỉ báng và lăng mạ). Luật về huỷ hoại tài sản đã được hình thành bởi giới cai trị (the Lex Aquilia) nên dễ bị diễn giải nhiều cách và áp dụng tùy tiện nhiều trường hợp bị quy trách nhiệm hủy hoại tài sản dù người đó không chịu trách nhiệm cá nhân. Theo quy định của Luật Justinia chỉ có bốn vi phạm mới áp dụng luật hủy hoại tài sản: trộm cắp, cướp dùng bạo lực, hủy hoại tài sản, tấn công người khác.

luật la mã

Thời Cộng hoà La Mã, luật hợp đồng không còn tồn tại tuy nhiên lại có khái niệm khác gọi là Nexum, một khái niệm về một dạng cho vay dẫn đến gây áp lực lên con nợ phục tùng người cho vay. Gây ám ảnh cho đến khi vương quốc La Mã hình thành. Các luật hợp đồng cổ điển được chia theo bốn hình thức: văn bảng(literal), bằng lời nói(verbal), sự việc(real), đồng thuận không thành văn (consensual contracts). Hợp đồng Văn bảng(literal) là một dạng cho vay được ghi vào sổ nợ, hợp đồng bằng lời nói Stipulatio là một dạng hợp đồng quan trọng nhất khi các bên đồng ý theo hình thái giản đơn “Anh có hứa trả tôi 10.000 sesterces” “Tôi hứa”. Nhưng đến thời Justinian mọi hợp đồng phải được viết thành văn bản.

Nếu một thoả thuận không đáp ứng đủ quy định về hình thức, nhưng vẫn đủ điều kiện về hợp đồng sự việc hay đồng thuận không thành văn. Một hợp đồng thật sự yêu cầu cần phải có sự chuyển giao một vật (hay cái gì đó) cho một bên khác, bên nhận sẽ phải có trách nhiệm đưa lại một vật khác( tạm hiểu là sự trao đổi ngang giá hàng hóa, hoặc tiền). Hợp đồng này chủ yếu là cho mượn tiền, hàng hóa, cầm cố, cam kết. Hợp đồng đồng thuận là loại hợp đồng quan trọng liên quan đến trao đổi các mặt hàng thiết yếu hàng ngày, trao đổi, thuê mướn dịch vụ , đối tác hợp tác, thực hiện hành vi. Vào thời hoàng đế Justinian đã có quy định về hợp đồng song vụ như thỏa thuận trao đổi(không mua bán) nếu một bên đã thực hiện đã hợp đồng thì có quyền bắt buộc bên còn lại phải thực hiện hợp đồng. Có cả hợp đồng trong tương lai, nhưng đều không mang tính pháp lý cao và ích hiện hữu vào thời kỳ này.

Quasi-delict quy định có bốn hình thức vi phạm phân loại cùng một nhóm nhưng không khái niệm rõ ràng. Quy định các hành vi chống lại kẻ chiếm dụng tài sản bất hợp pháp, bảo vệ người mua hàng trước các chủ tàu, chủ quán trọ, người trông giữ động vật …..làm ảnh hưởng đến khách hàng như mất mát tài sản bị trộm hay hư hại vẫn phải chịu trạch nhiệm bồi thường.

Quasi-contract là quy định các trách nhiệm khi các bên vi phạm mà không có thỏa thuận các vi phạm trong hợp đồng( bồi thường ngoài hợp đồng) vì không có thỏa thuận nên không vi phạm. Đây là cách giải quyết sự thiếu xót của Quasi-delict. Ví dụ (negotiorum gestio) một người có thể yêu cầu một bên hoàn trả và bồi thường nếu bị vi phạm

Luật Thừa Kế

Một trong những thuật ngữ pháp luật phức tạp của Luật La Mã, công dân La Mã đến độ tuổi nhất định có thể nhận thừa kế nhưng phải theo yêu cầu hình thức quy định. Yêu cầu đầu tiên là phải có một hoặc nhiều người thừa kế được chỉ định. Theo quy định luật La Mã, người thừa kế phải đủ quyền và nghĩa vụ thừa kế, thừa kế nợ, thừa kế quyền chủ nợ kể cả khi tài sản không đủ trả nợ. Mặc dù quyền thừa kế vẫn có thể bị mất đi, cho đến thời kỳ Justinian thì có quy định từ chối nhận thừa kế và các quy định không thể từ chối nhận thừa kế. Cải cách quan trọng nhất là người nhận thừa kế không phải trả một khoản tiền không nhiều hơn số tài sản thừa kế. Người cha bắt buộc phải để lại cho con mình một phần tài sản cho con mình, vài trường hợp là để lại anh chị em.

Đối với thừa kế không có di chúc hoặc thừa kế ngoài di chúc, chỉ có những người đủ quyền lực mới có thể nhận thừa kế là những người đàn ông có mối quan hệ huyết thống trong gia đình(La Mã lúc này theo chế độ phụ hệ), nếu không có thì sẽ là thành viên gia tộc. Luật sau đó được cải cách, những đứa trẻ vị thành niên có thể nhận thừa kế một cách công bằng với những người khác. Những người thừa kế có yêu cầu đầu tiên sẽ được ưu tiên nhận thừa kế, sau đó đến các hàng thừa kế tiếp theo. Những người anh chị em nếu có một nửa dòng máu và những người thuộc bên dòng họ người Cha gần nhất sẽ được. Trong khi đó tài sản chung vợ chồng thời kỳ này không được xem xét, nhưng vẫn trong nhóm được xem xét thừa kế. Luật còn cho phép các “quả phụ” được nhận 1/4 tài sản nếu bà này sinh hạ được ba người con tuy nhiên hàng thừa kế vẫn là ba người con, bà chỉ nhận được phần Ususfructus trang trải cuộc sống.

Luật Tố Tụng Luật La Mã

Giai đoạn trước vụ kiện (legis actiones) được chia thành hai phần: tiền sơ khởi trước chuẩn bị trước Quan tòa và trình bày chứng cứ tranh luận với Quan tòa. Các bên phải trình bày rồi đánh giá quyền sở hữu của mình với tài sản này. Gánh nặng chứng cứ thuộc về nguyên đơn nhiều hơn.

Luật tố tụng mới hình thành từ thế kỉ thứ hai đến thế kỉ thứ nhất trước Công nguyên, vấn đề ở giai đoạn này bị bắt buộc theo một khuôn mẫu văn bản viết sẵn gửi cho Quan tòa “Nếu bị đơn có nợ nguyên đơn 10.000 Sesterces thì bị đơn phải trả cho nguyên đơn 10.000 sesterces, nếu không có nợ thì sẽ được tha cho”. Một mẫu giấy được soạn sẵn viết cho nguyên đơn trước khi người này đến Tòa án và cũng không được xem là cấp xét xử sơ thẩm nếu bị đơn không chấp nhận các khiếu kiện đó. Luôn luôn có yếu tố hợp đồng liên quan đến các vụ kiện dù ở các hệ thống cũ hay mới của La Mã. Bị đơn luôn bị áp lực vô hình từ các quan tòa khi họ từ chối các khiếu kiện, nguyên đơn sẽ phải bị buộc chấp nhận một văn bản khác mà quan tòa không đồng ý nên quan tòa có thể chỉ định một quan tòa khác ra phán quyết vụ việc.

Vào cuối thời kỳ Cộng hòa, tồn tại một hệ thống khác tại địa phương và Rome cùng tồn tại song song. Các thẩm phán sử dụng quyền lực giải quyết các tranh chấp, trong trường hợp có một người nào đó khiếu kiện vụ việc với thẩm phán khác trước, thẩm phán nhận vụ việc sau có thể điều tra và yêu cầu nhận giải quyết vụ việc nếu thẩm phán này nhận thấy mình phù hợp giải quyết vụ việc. Các thẩm phán do Hoàng đế chỉ định thay thế thẩm phán khác giải quyết vụ việc, quy trình này càng trở nên phổ biến vào thời điểm đó. Hậu quả các yếu tố thủ tục dần dần biến mất do sự cai trị và giám sát từ nhà vua và các thân cận do vua bổ nhiệm.

DỊch và cải biên: La Mạnh Nhất

Sources: https://www.britannica.com/topic/Roman-law/The-law-of-property-and-possession

Xem thêm