DS600-Malaysia kiện EU liên quan Biện pháp hạn chế Dầu Cọ và nhiên liệu sinh học

Consulation-Thương Nghị

Khiếu nại của Malaysia

Vào ngày 15 tháng 1 năm 2021, Malaysia đã yêu cầu tiến hành tham vấn với Liên minh châu Âu (EU), PhápLitva liên quan đến một số biện pháp do EU và các quốc gia thành viên EU áp dụng đối với dầu cọnhiên liệu sinh học từ cây cọ dầu có nguồn gốc từ Malaysia.

Malaysia cho rằng một số biện pháp do EU áp dụng — bao gồm:

  • Mục tiêu năng lượng tái tạo của EU
  • Tiêu chí xác định nguyên liệu có rủi ro cao về thay đổi sử dụng đất gián tiếp (ILUC)
  • Tiêu chí về tính bền vững và tiết kiệm phát thải khí nhà kính (GHG)

— có vẻ như không phù hợp với các điều khoản sau của Hiệp định TBT:

Điều 2.1, 2.2, 2.4, 2.5, 2.8, 2.9, 5.1.1, 5.1.2, 5.2, 5.6, 5.8, 12.1 và 12.3

— và vi phạm các điều khoản sau của Hiệp định GATT 1994:

Điều I:1, III:4, X:3(a) và XI:1

Malaysia cũng cho rằng một số biện pháp do Pháp (thuế nhiên liệu trong khuôn khổ Thuế Tổng quát đối với Hoạt động Gây ô nhiễm) và Litva (Luật số XI-1375 về năng lượng tái tạo) áp dụng có vẻ như không phù hợp với các điều khoản sau của Hiệp định về Trợ cấp và Biện pháp đối kháng (SCM):

Điều 3, 3.1(b), 3.2, 5 và 5(c)

— và vi phạm các điều khoản sau của Hiệp định GATT 1994:

Điều I:1 và III:2

Các bên thứ ba tham gia tham vấn:

  • Ngày 28 tháng 1 năm 2021, Colombia yêu cầu tham gia tham vấn.
  • Ngày 29 tháng 1 năm 2021, Argentina và Indonesia cũng yêu cầu tham gia.
  • Sau đó, EU thông báo với Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) rằng họ đã chấp nhận yêu cầu tham gia của Colombia và Indonesia.

Phán Quyết Sơ Bộ

Thành lập Ban Hội thẩm

Vào ngày 15 tháng 4 năm 2021, Malaysia đã yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm để giải quyết tranh chấp. Tại cuộc họp ngày 28 tháng 4 năm 2021, Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) đã hoãn việc thành lập Ban Hội thẩm.Tại cuộc họp ngày 28 tháng 5 năm 2021, DSB đã chính thức thành lập Ban Hội thẩm. Argentina, Úc, Brazil, Canada, Trung Quốc, Colombia, Costa Rica, Ecuador, El Salvador, Guatemala, Honduras, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Na Uy, Liên bang Nga, Ả Rập Xê Út, Singapore, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraina, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ bảo lưu quyền với tư cách bên thứ ba. Cho đến ngày 19 tháng 7 năm 2021, Malaysia đã yêu cầu Tổng Giám đốc WTO tiến hành chỉ định thành phần Ban Hội thẩm, ngày 29 tháng 7 năm 2021, Tổng Giám đốc đã hoàn tất việc chỉ định Ban Hội thẩm.

Vào ngày 7 tháng 2 năm 2022, Chủ tịch Ban Hội thẩm đã thông báo với Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) rằng, theo lịch trình đã được thông qua sau quá trình tham vấn với các bên, Ban Hội thẩm dự kiến sẽ ban hành báo cáo cuối cùng cho các bên không trước quý III năm 2022.
Chủ tịch Ban Hội thẩm cũng thông báo rằng báo cáo sẽ được công bố rộng rãi sau khi được luân chuyển đến các Thành viên bằng cả ba ngôn ngữ chính thức của WTO, và ngày luân chuyển sẽ phụ thuộc vào tiến độ hoàn tất việc dịch thuật.
Vào ngày 22 tháng 2 năm 2023, Chủ tịch Ban Hội thẩm tiếp tục thông báo với DSB rằng, do tính chất phức tạp của các vấn đề pháp lý và thực tế phát sinh trong tranh chấp, Ban Hội thẩm dự kiến sẽ ban hành báo cáo cuối cùng cho các bên không trước quý III năm 2023. Ngày 05 tháng 03 năm 2023 báo cáo đã gửi đến tất cả thành viên.

Nội Dung Phán Quyết

  1. Các Biện Pháp Của Eu-Liên minh Châu Âu
  • Ngưỡng tối đa 7% và trần rủi ro cao ILUC cùng lộ trình loại bỏ được xem là quy định kỹ thuật theo nghĩa của Phụ lục 1.1 của Hiệp định TBT.
  • Malaysia không chứng minh được rằng trần ILUC rủi ro cao và lộ trình loại bỏ là không phù hợp với nghĩa vụ tại Điều 2.4 của Hiệp định TBT, yêu cầu sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan làm cơ sở cho quy định kỹ thuật.
  • Malaysia không chứng minh được rằng ngưỡng tối đa 7% và trần ILUC rủi ro cao cùng lộ trình loại bỏ là không phù hợp với nghĩa vụ tại Điều 2.2 của Hiệp định TBT, yêu cầu đảm bảo rằng quy định kỹ thuật không gây hạn chế thương mại quá mức cần thiết để đạt được mục tiêu chính đáng.
  • Liên minh châu Âu đã quản lý và thực thi trần ILUC rủi ro cao và lộ trình loại bỏ một cách không phù hợp với Điều 2.1 của Hiệp định TBT, do không tiến hành rà soát kịp thời các dữ liệu được sử dụng để xác định loại nhiên liệu sinh học nào có rủi ro ILUC cao, và do có những thiếu sót trong thiết kế và thực thi tiêu chí ILUC thấp, dẫn đến phân biệt đối xử tùy tiện hoặc không thể biện minh giữa các quốc gia có điều kiện tương đồng.
  • Malaysia không chứng minh được rằng Liên minh châu Âu đã hành động không phù hợp với Điều 2.5 của Hiệp định TBT, vì không có căn cứ và không giải thích lý do tại sao xây dựng, ban hành hoặc áp dụng ngưỡng tối đa 7% và trần ILUC rủi ro cao cùng lộ trình loại bỏ, theo các nghĩa vụ tại Điều 2.2 đến 2.4 của Hiệp định TBT(ngưỡng trần do tình hình hoạt động lập pháp Châu Âu thông qua).
  • Malaysia không chứng minh được rằng trần ILUC rủi ro cao và lộ trình loại bỏ là không phù hợp với nghĩa vụ tại Điều 2.8 của Hiệp định TBT, vốn yêu cầu rằng khi thích hợp, quy định kỹ thuật nên được quy định theo tiêu chí hiệu suất thay vì đặc điểm thiết kế hoặc mô tả.
  • Liên quan đến các khiếu nại theo Điều 2.9 của Hiệp định TBT, Liên minh châu Âu đã hành động không phù hợp với:
    – Điều 2.9.2, do không thông báo các biện pháp đề xuất về ngưỡng tối đa 7% và trần ILUC rủi ro cao cùng lộ trình loại bỏ;
    – Điều 2.9.4, do không tổ chức quy trình lấy ý kiến đối với các biện pháp đề xuất này, theo đúng yêu cầu của điều khoản đó.
  • Thủ tục chứng nhận ILUC rủi ro thấp được xem là một “thủ tục đánh giá sự phù hợp” theo định nghĩa tại Phụ lục 1.3 của Hiệp định TBT.
  • Malaysia không chứng minh được rằng thủ tục chứng nhận ILUC rủi ro thấp là không phù hợp với nghĩa vụ tại Điều 5.1.1 của Hiệp định TBT, yêu cầu rằng các thủ tục đánh giá sự phù hợp phải đảm bảo quyền tiếp cận cho các nhà cung cấp sản phẩm tương tự có xuất xứ từ lãnh thổ của các Thành viên khác, trong điều kiện không kém thuận lợi hơn so với các nhà cung cấp sản phẩm tương tự có xuất xứ trong nước hoặc từ bất kỳ quốc gia nào khác.
  • Thủ tục chứng nhận ILUC rủi ro thấp, như được quy định tại Điều 6 của Quy định Ủy quyền “Delegated Regulation”, không phù hợp với Điều 5.1.2 của Hiệp định TBT, do các thiếu sót trong việc thực thi thủ tục này đã tạo ra những rào cản không cần thiết đối với thương mại quốc tế.
  • Liên quan đến các khiếu nại theo Điều 5.6 của Hiệp định TBT, Liên minh châu Âu đã hành động không phù hợp với:
    Điều 5.6.1, do không công bố thông báo về thủ tục chứng nhận ILUC rủi ro thấp được đề xuất ở giai đoạn sớm và phù hợp, theo cách thức giúp các bên liên quan tại Malaysia và các Thành viên WTO khác có thể tiếp cận và nắm bắt thông tin;
    Điều 5.6.2, do không thông báo thủ tục chứng nhận ILUC rủi ro thấp được đề xuất;
    Điều 5.6.4, do không tổ chức quy trình lấy ý kiến đối với thủ tục chứng nhận ILUC rủi ro thấp được đề xuất, theo đúng yêu cầu của điều khoản này.
  • Malaysia không chứng minh được rằng Liên minh châu Âu đã hành động không phù hợp với nghĩa vụ tại Điều 5.8 của Hiệp định TBT, yêu cầu rằng các thủ tục đánh giá sự phù hợp đã được ban hành phải được công bố kịp thời hoặc được cung cấp theo cách thức giúp các bên liên quan tại các Thành viên khác có thể tiếp cận và nắm bắt thông tin.
  • Malaysia không chứng minh được rằng Liên minh châu Âu đã hành động không phù hợp với Điều 12.3 của Hiệp định TBT, được diễn giải theo Điều 12.1, liên quan đến việc đối xử đặc biệt và khác biệt đối với các nước đang phát triển.
  • Malaysia không chứng minh được rằng trần ILUC rủi ro cao và lộ trình loại bỏ, hoặc thủ tục chứng nhận ILUC rủi ro thấp, là không phù hợp với nghĩa vụ tại Điều XI:1 của Hiệp định GATT 1994, cấm thiết lập hoặc duy trì bất kỳ lệnh cấm hoặc hạn chế nào đối với việc nhập khẩu sản phẩm từ lãnh thổ của Thành viên khác.
  • Trần ILUC rủi ro cao và lộ trình loại bỏ là không phù hợp với Điều III:4 của GATT 1994, vì đã áp dụng đối xử kém thuận lợi hơn đối với nhiên liệu sinh học từ dầu cọ của Malaysia so với các sản phẩm tương tự có xuất xứ từ EU.
  • Trần ILUC rủi ro cao và lộ trình loại bỏ là không phù hợp với Điều I:1 của GATT 1994, vì đã không dành ưu đãi cho nhiên liệu sinh học từ dầu cọ của Malaysia như đã dành cho các sản phẩm tương tự nhập khẩu từ các quốc gia thứ ba.
  • Trong phạm vi Malaysia khiếu nại thủ tục chứng nhận ILUC rủi ro thấp như một biện pháp riêng chỉ áp dụng nhằm hạn chế sản phẩm của Malaysia theo Điều III:4 và Điều I:1 của GATT 1994, thì Malaysia không chứng minh được bất kỳ sự không phù hợp nào với các nghĩa vụ này.
  • Liên minh châu Âu đã hành động không phù hợp với Điều X:3(a) của GATT 1994, do việc thực thi trần ILUC rủi ro cao và lộ trình loại bỏ theo Điều 26 của RED II không hợp lý, vì các thiếu sót trong thiết kế và thực thi tiêu chí ILUC rủi ro thấp đã không cung cấp đầy đủ các yếu tố cần thiết để nhiên liệu sinh học từ dầu cọ được chứng nhận là có rủi ro ILUC thấp.
  • Về Điều XX của GATT 1994:
    (i) Trần ILUC rủi ro cao và lộ trình loại bỏ là một biện pháp liên quan đến việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên có thể cạn kiệt, được thực thi cùng với các biện pháp hạn chế tiêu dùng hoặc sản xuất trong nước, theo nghĩa của Điều XX(g).
    (ii) Biện pháp này cũng được xem là cần thiết để bảo vệ sức khỏe con người, động vật hoặc thực vật, theo nghĩa của Điều XX(b).
    (iii) Không cần thiết phải đưa ra phán quyết về việc liệu biện pháp này có phải là biện pháp cần thiết để bảo vệ đạo đức công cộng theo Điều XX(a) hay không.
    (iv) Tuy nhiên, biện pháp này đã được thực thi theo cách thức tạo ra sự phân biệt đối xử tùy tiện hoặc không thể biện minh giữa các quốc gia có điều kiện tương đồng, do EU không tiến hành rà soát kịp thời dữ liệu dùng để xác định nhiên liệu sinh học nào có rủi ro ILUC cao, và do các thiếu sót trong thiết kế và thực thi tiêu chí cũng như thủ tục chứng nhận ILUC rủi ro thấp.

2. Các Biện Pháp Của Cộng Hòa Pháp

  • Việc loại trừ nhiên liệu sinh học từ dầu cọ khỏi nhóm nhiên liệu đủ điều kiện theo biện pháp TIRIB của Pháp là không phù hợp với Điều III:2, đoạn đầu tiên của GATT 1994, vì đã áp dụng mức thuế nội địa đối với nhiên liệu sinh học nhập khẩu từ dầu cọ cao hơn mức thuế áp dụng cho các sản phẩm tương tự trong nước từ cây cải dầu và đậu tương.
  • Việc loại trừ này cũng không phù hợp với Điều III:2, đoạn thứ hai của GATT 1994, vì đã áp dụng mức thuế khác biệt giữa nhiên liệu sinh học nhập khẩu từ dầu cọ và các sản phẩm trong nước có tính cạnh tranh trực tiếp hoặc có thể thay thế từ cây cải dầu và đậu tương, và mức thuế khác biệt này được áp dụng nhằm bảo hộ sản xuất trong nước.
  • Việc loại trừ nhiên liệu sinh học từ dầu cọ khỏi nhóm nhiên liệu đủ điều kiện theo biện pháp TIRIB của Pháp là không phù hợp với Điều I:1 của GATT 1994, vì đã dành ưu đãi cho nhiên liệu sinh học nhập khẩu từ cây cải dầu và đậu tương mà không dành ngay lập tức và vô điều kiện cho sản phẩm tương tự từ dầu cọ nhập khẩu từ Malaysia.
  • Malaysia không chứng minh được rằng biện pháp TIRIB của Pháp đã cung cấp một khoản trợ cấp cụ thể gây ra tác động bất lợi dưới hình thức thiệt hại nghiêm trọng, theo các điều khoản 5(c), 6.3(a) và 6.3(c) của Hiệp định SCM.

3. Đối với Litva Ban Hội thẩm kết luận rằng Malaysia đã không chứng minh được một vụ vi phạm sơ khởi theo Hiệp định TBT hoặc GATT 1994 đối với bất kỳ biện pháp nào của Litva nằm trong phạm vi thẩm quyền của vụ việc.

Thông qua báo cáo và thời gian thực hiện

Tại cuộc họp ngày 26 tháng 4 năm 2024, Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) đã thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm.

Thời gian hợp lý để thực hiện

  • Vào ngày 24 tháng 5 năm 2024, Liên minh châu Âu thông báo với DSB rằng họ dự định thực hiện các khuyến nghị và phán quyết của DSB một cách phù hợp với nghĩa vụ của mình theo WTO, và rằng họ cần một khoảng thời gian hợp lý để thực hiện.
  • Ngày 21 tháng 1 năm 2025, Liên minh châu Âu và Malaysia thông báo với DSB rằng họ đã đạt được thỏa thuận theo Điều 21.3(b) của DSU, theo đó thời gian hợp lý để EU thực hiện các khuyến nghị và phán quyết của DSB là 20 tháng và 6 ngày.
  • Theo đó, thời gian hợp lý sẽ kết thúc vào ngày 1 tháng 1 năm 2026.

Tác giả: La Mạnh Nhất

Sources:

https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/cases_e/ds600_e.htm

https://policy.trade.ec.europa.eu/enforcement-and-protection/dispute-settlement/wto-dispute-settlement/wto-disputes-cases-involving-eu/wtds600-european-union-and-certain-member-states-certain-measures-concerning-palm-oil-and-oil-palm_en

https://ustr.gov/ds600

DS600-Malaysia kiện EU liên quan Biện pháp hạn chế Dầu Cọ và nhiên liệu sinh học

Consulation-Thương Nghị Khiếu nại của Malaysia Vào ngày 15 tháng 1 năm 2021, Malaysia đã [...]

DS449-Trung Quốc Kiện Hoa Kỳ áp thuế chống trợ cấp

Ngày 17/09/2012 Trung Quốc yêu cầu thương nghị với Hoa Kỳ liên quan đến các [...]

Nhật Bản kiện Trung Quốc Áp dụng biện pháp chống bán phá giá Thép

Ngày 20 tháng 12 năm 2012, Nhật Bản yêu cầu thương nghị với Trung Quốc [...]

Hoa Kỳ kiện Trung Quốc: Áp dụng các biện pháp trợ giá nông nghiệp

Thương Nghị Ngày 13 tháng 09 năm 2016, Hoa Kỳ yêu cầu thương nghị với [...]

Vụ kiện Hàn Quốc-Hoa Kỳ Chống bán phá giá và Tự vệ

Thương Nghị Yêu Cầu Của Hàn Quốc Ngày 14 tháng 02 năm 2018, Hàn Quốc [...]

Vụ Kiện Việt Nam-Indonesia Biện pháp Tự Vệ thép tổng hợp

tranh chấp thương mại quốc tế liên quan đến biện pháp tự vệ của Indonesia [...]

Vụ kiện Chống bán phá giá Tôm giữa Hoa Kỳ-Việt Nam Phần 2

Việt Nam tranh chấp với Hoa Kỳ chống bán phá giá liên quan đến con [...]

Vụ kiện Chống bán phá giá Tôm giữa Hoa Kỳ-Việt Nam Phần 1

Việt Nam tranh chấp với Hoa Kỳ chống bán phá giá liên quan đến con [...]